Thứ Ba, 5 tháng 8, 2014

Phong thủy Áp dụng trong kinh doanh

Cách đặt bàn làm việc
Thuật phong thủy đã và đang được áp dụng rộng rãi hơn trong thế giới kinh doanh. Cách đây không lâu, khách sạn MGM nổi tiếng tại Las Vegas, Mỹ theo thuật phong thuỷ đã cho xây dựng hai con sư tử bằng đá khổng lồ để tránh kinh doanh thua lỗ. Các công ty đang ngày một quan tâm nhiều hơn tới thuật phong thuỷ và những ứng dụng của nó trong kinh doanh.
Bố trí, sắp đặt lại bàn làm việc và không gian làm việc
Theo thuật phong thuỷ, hiệu quả công việc và sự giàu có trong kinh doanh có thể được nâng cao bằng việc sắp xếp lại và thiết lập trật tự trên bàn làm việc của bạn. Những dòng năng lượng mạnh mẽ không thể tuôn chảy đều nếu có sự bừa bộn trên bàn làm việc cản trở hướng đi và làm tắc nghẽn chúng.
Hãy loại bỏ mọi thứ khỏi bàn làm việc của bạn và dọn sạch mọi sự bừa bộn xung quanh đó. Bạn chỉ đặt trở lại những vật dụng nào được sử dụng hàng ngày và giấy tờ trên bàn làm việc phải gọn gàng và được giới hạn trong những công việc cần thiết. Những vật dụng và giấy tờ khác nên được đặt ở đâu đó, trong ngăn bàn, ngăn kéo tủ, giá tài liệu,....
Giờ đây bàn làm việc của bạn đã gọn gàng, hãy đặt thêm vào đó vật gì đấy đáng yêu, tích cực và giúp thăng tiến sự nghiệp. Bạn nên sử dụng bát quái để hướng dẫn cách bày trí, chẳng hạn để gia tăng sự giàu có cho kinh doanh, hãy đặt tượng giả cổ màu đỏ hay màu tía vào góc đông nam của bàn.
Phía tây của bàn tượng trưng cho sức khoẻ, sự phát triển cá nhân và gia đình. Tại đó nên được đặt đồ gỗ có màu xanh lá cây. Một chiếc cây nhỏ cũng khá thích hợp cho khu vực này hay một bức hình gia đình trong khung bằng gỗ.
Cách bố trí bàn làm việc
Định vị bàn làm việc của bạn trong phòng hay trong văn phòng
Trong thuật phong thuỷ, ví trí bàn làm việc có ảnh hưởng lớn tới hạnh phúc, thành công và sự thịnh vượng của bạn trong cuộc sống kinh doanh. Vị trí tốt nhất của bàn làm việc nên ở nơi có thể nhìn ra toàn bộ gian phòng và sau lưng là tường.
Bạn cũng nên có tầm nhìn ra cả cửa số và cửa ra vào, nhưng đừng bao giờ hướng thẳng tới cửa ra vào. Đường ra vào cửa hay cửa sổ không nên hướng trực tiếp tới lưng bạn bởi nếu thế sẽ đem lại nhiều điều xấu.
Hoa và cây cảnh
Hoa và cây cảnh sẽ mang lại nhiều nhân tố tích cực cho môi trường làm việc. Bên cạnh vẻ đẹp tự nhiên, nó còn cải thiện chất lượng không khí, hoà đồng chúng ta với thế giới tự nhiên bên ngoài và màu sắc xanh tươi sẽ khích lệ những phát triển kinh doanh và cá nhân.
Song bạn cần tránh cây xương rồng hay các loài cây có lá sắc cạnh bởi điều đó có thể dẫn tới các điều xấu. Để đem lại những điều tốt đẹp, hoa và cây cảnh cần tươi và sum suê. Nếu cây cảnh chết, hãy bỏ nó ngay và thay thế bằng một cây khác.
Cũng rất tốt nếu dùng cây cảnh bằng nhựa hay bằng lụa nhưng bạn cần giữ chúng không bị bám bụi.
Nước
Nước là biểu tượng mạnh mẽ nhất trong thuật phong thuỷ. Dòng chảy năng lượng của nó rất có lợi cho sức khoẻ và sự thịnh vượng của bạn nhưng cần quan tâm kỹ lượng để giữ cho nước luôn mới và sạch.
Các đài phun nước hay tháp nước là rất tuyệt vời nhưng cần chắc chắn rằng dòng chảy của nước không bị cản trở, tù đọng hay quá nhanh. Những tháp nước nhỏ được thiết kế đặt trên bàn cũng là một lựa chọn tốt nếu không gian bị giới hạn.
Một lựa chọn khác đó là bể cá cảnh hay bể thuỷ sinh. Bạn nên nuôi cá vàng bởi vì vàng là một biểu tượng của người Trung Quốc cho tiền bạc và có qua đó có tác dụng thu hút tiền bạc.
Một cách tuyệt vời nữa để đưa nước vào kinh doanh đó là sử dụng bất cứ vật dụng nào minh hoạ cho nước.
Văn phòng tại nhà
Thuật phong thuỷ cũng coi trọng sự thiết yếu phải giữ cho cuộc sống cá nhân và công việc tách biệt nhau khi bạn có văn phòng làm việc tại nhà. Một lối vào riêng biệt từ bên ngoài cho văn phòng tại nhà của bạn là một lựa chọn. Nếu không thể, bạn nên bố trí căn phòng ở gần cửa trước hay cửa sau của căn nhà. Khi phòng làm việc tại nhà là một phần của căn phòng lớn hơn, hãy chắc chắn bạn ngăn tách nó bằng một vách ngăn hay những cây cảnh lớn. Một khu vực được trải thảm cũng thích hợp để làm nột bật nơi làm việc.
Trần nhà trong nơi làm việc của bạn như thế nào? Một trần nhà phẳng sẽ đảm bảo các dòng chảy năng lượng tốt nhất; còn bằng không bạn nên treo chiếc chuông gió để loại bỏ những điều xấu.
Bạn còn có thể đẩy mạnh dòng chảy năng lượng cá nhân và những điềm tốt trong tương lai bằng việc ăn mặc hợp lý và chăm sóc sức khoẻ, vệ sinh và hình thức của bạn. Đừng làm việc tại nhà khi còn đang mặc bộ đồ ngủ pyjamas.
Chắc phải mất hàng năm để hiểu đầy đủ và sâu rộng về thuật Phong thuỷ. Bạn nên tới các cửa hàng sách hay thư viện để tìm hiểu thêm về bí quyết thành công từ hàng nghìn năm trước đây này. Cho dù bạn là một nhân viên hay nhà quản lý, có rất nhiều yếu tố tuyệt vời bạn có thể ứng dụng từ Phong thuỷ vào môi trường làm việc, công việc và sự nghiệp của mình một cách có lợi nhất.

Chủ Nhật, 3 tháng 8, 2014

KINH DOANH VÀ THUẬT PHONG THỦY


Bạn muốn kinh doanh của mình phát đạt hơn? Bạn cũng muốn môi trường làm việc hài hoà giúp khích lệ và trợ giúp cả bạn lẫn những người bạn làm việc cùng? Thế còn việc sở hữu những kỹ năng suy nghĩ sáng tạo y và hiệu suất hơn?    Nếu câu trả lời của bạn là “Có” đối với một trong các câu hỏi trên, bạn có thể nên quan tâm tới việc sử dụng Thuật phong thuỷ, một nghệ thuật sắp đặt của người Trung Hoa cổ. Rất nhiều công ty Trung Quốc ngày nay đã áp dụng thuật phong thuỷ và tận hưởng nhiều lợi ích từ đây. Rõ ràng nhất đó là tạo ra được một môi trường làm việc yên bình, thành công và sinh lời.Thật tuyệt vời khi bước vào cuộc hành trình tới thế giới diệu kỳ của “gió và nước”. Chúng ta sẽ có thể biết cách sử dụng dòng chảy năng lượng gọi là “chi” để cải thiện bản thân và hoạt động kinh doanh. Phong thuỷ là một triết lý đã chứng minh ích lợi trong hơn ba nghìn năm qua. Hãy sắp xếp lại bàn làm việc và tâm trí của bạn. Hãy để chân lý mênh mông của Thuật phong thuỷ mang lại sự cân bằng tốt đẹp cho cuộc sống công việc. Thuật phong thuỷPhong thuỷ là nghệ thuật sắp đặt vật thể của người Trung Hoa cổ nhằm đem lại những ảnh hưởng có lợi hay bất lợi. Sự sắp
đặt này được dựa trên dòng chảy năng lượng “chi” theo cấu trúc âm và dương. Về ngữ nghĩa, theo tiếng Trung Quốc, “phong” và “thuỷ” là “gió” và “nước”. Nhờ “gió” và “nước” mà các dòng năng lượng chảy qua tự nhiên và vạn vật. Dòng chảy năng lượng này không nên gặp trở ngại và cần có sự cân bằng để loại bỏ mọi sự bất thường. Âm và Dương là biểu tượng và niềm tin vào tự nhiên, vào sự hiện hữu của một thế giới vạn vật hài hoà. Không có gì hoàn toàn là dương hay âm; trong một vật thể luôn có ít nhất một phần nào đó của âm hay dương. Âm là mặt đen, biểu lộ sự yếu đuối, bị động, đen tối, lạnh lẽo, mùa đông và phụ nữ. Còn dương là mặt sáng, biểu lộ sự mạnh mẽ, chủ động, sáng sủa, ấm áp, mùa hè và nam giới. Thuật phong thuỷ được dựa trên học thuyết âm dương này.
Bát quái
Đây là một trong những công cụ hiệu quả nhất trong thuật phong thuỷ để tạo ra những thay đổi tích cực. Bát quái là một biểu đồ tám cạnh thể hiện 8 điểm của la bàn. Mỗi hướng của la bàn tập trung vào một khía cạnh khác biệt của cuộc sống, chẳng hạn hướng Đông Nam ảnh hưởng tới sức khoẻ và giàu có. Sử dụng kiến thức này có thể giúp bạn đạt được các mục tiêu trong tất cả các khía cạnh cuộc sống.  
Nguồn: http://dothogiatruyen.com/kinh-doanh-va-thuat-phong-thuy/

Thứ Sáu, 1 tháng 8, 2014

Tại sao có ngày vu lan báo hiếu rằng tháng 7

Mùa hiếu hạnh lại đến, gợi lên cảm xúc trào dâng về mẹ cha - những người đã tạo tác ra ta, cho ta vóc hình, sự nghiệp. Dù bạn là ai, người nông phu hay bậc quyền cao chức trọng thì điểm gặp gỡ giữa chúng ta là tinh thần báo hiếu đang tuôn trào trong dòng nhiệt huyết của con tim.

Trong cung bậc tri ân và báo ân của dân tộc, Phật giáo đã từ lâu luôn trân trọng và lấy hạnh hiếu làm đầu. Sự tương phùng của tinh thần đó đã dẫn dắt nên những gương hiếu hạnh trong quá khứ cũng như hiện tại, sáng rực và ghi mãi dấu ấn với thời gian. Không phải ngẫu nhiên, cứ đến ngày rằm tháng bảy âm lịch hằng năm, giới Phật Giáo long trọng tổ chức đại lễ Vu lan – Báo hiếu thật trang nghiêm, hoành tráng từ hình thức tổ chức cho đến nội dung mang ý nghĩa nhân văn trên bình diện tâm linh – văn hóa của con người. Lễ hội xuất phát từ điển tích Phật giáo được ghi lại trong kinh Vu Lan Bồn.
- “Vu Lan” là danh từ gọi tắt của “Vu Lan Bồn”, tiếng Phạn là Ullambana. “Ullam” dịch là “treo ngược” (đảo huyền), dụ cho cái khổ của người chết như bị treo ngược, cực kỳ thống khổ. Chữ “bồn” tiếng Phạn là “bana”, dịch là “cứu giúp”. Như vậy “Vu Lan Bồn” là giải cứu tội bị treo ngược.
- “Báo hiếu” là sự đền đáp công đức sinh thành dưỡng dục của người con đối với cha mẹ hiện tiền và cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp.
Lễ Vu Lan của Phật giáo như chúng ta thấy ngày nay phát xuất từ thời Đức Phật. Bằng đại bi tâm, Đức Phật đã dạy phương thức báo hiếu cho cha mẹ ở đời này và nhiều đời khác. Người đầu tiên tiếp nhận không ai khác là Tôn giả Mục Kiền Liên. Tôn giả là một trong mười vị đệ tử xuất chúng của Thế Tôn. Khi Mục Kiền Liên vừa chứng được lục thông, liền nhớ tới mẹ mình, Tôn giả bèn dùng tuệ nhãn kiếm tìm, liền thấy mẹ đang ở trong loài ngạ quỷ hết sức đói khổ. Thương mẹ vô vàn, Ngài đã vận dụng thần thông xuống cõi ngạ quỷ dâng bát cơm đầy cho mẹ. Do tâm bà Thanh Đề còn quá san tham và ác nghiệp thọ báo còn quá nặng nề nên bà không thể dùng cơm vì bát cơm biến thành lửa. Vô cùng đau đớn, không biết dùng cách nào để cứu mẹ mình, Ngài liền về hỏi đức Thế Tôn. Đức Phật liền dạy :
“ Tội lỗi của mẹ ngươi dù có dùng thần thông phép lạ của hàng thiên thần địa kỳ cũng không cứu được, duy chỉ nhờ thần lực của chúng Tăng sau ba tháng an cư kiết hạ, tin tấn tu hành thanh tịnh, tập trung chú nguyện mới có thể chuyển hóa được nghiệp lực, mẹ ngươi mới thoát được cảnh khổ”.

Nghe vậy, Tôn giả mục Kiền Liên liền khẩn cầu Thế Tôn :
“Bạch Thế Tôn, con nay làm sao mời được chư Tăng mười phương cúng dường một lúc như vậy được ?”.
Đức Phật dạy :“Ngày Vu Lan cũng là ngày Tự Tứ của chư Tăng, ông nên sắm các thứ cúng dường trong ngày Tự Tứ. Ngày đó dù các vị ở trong thiền định hay thọ hạ kinh hành, hay hóa độ nhân gian, cũng tập trung lại để Tự Tứ và cầu nguyện cho mẹ người được thoát khổ”.
Tôn giả thực hành theo lời dạy của Đức Thế Tôn, và chính ngay trong ngày đó mẹ Tôn giả thoát được cảnh khổ ngạ qủy mà được sanh lên cõi trời. Tôn giả vô cùng hoan hỷ và thỉnh cầu : “Sau này có chúng sanh nào muốn phát tâm hiếu để cầu nguyện cho cha mẹ thoát khổ được vui, họ có được làm như con không?”.
Thế Tôn bảo rằng : “Có thể được làm như vậy trong ngày Tự tứ để cha mẹ đời này và nhiều đời được siêu độ giải thoát”.
Từ đó trong Phật giáo truyền lại một pháp thức cứu độ cho các bậc tiền nhân quá vãng siêu thoát về cảnh giới an lành, được thực hiện trong ngày Vu Lan - Tự Tứ. Vào những ngày này, dù bạn là ai, ở đâu cũng ước muốn được đến chùa để tham dự lễ Vu Lan - Báo Hiếu, thắp một nén hương lòng cầu nguyện cho cha mẹ hoặc đời này hay nhiều đời được siêu độ, còn người đang hiện hữu nhờ công đức này mà an lành hạnh phúc trong cuộc sống nhân sinh.
Kể từ khi Phật Giáo truyền vào Việt Nam, mùa Vu Lan trở thành truyền thống báo hiếu. Ngày nay, lễ Vu Lan không còn đơn thuần chỉ có ý nghĩa tôn giáo thiêng liêng mà đã trở thành “lễ hội văn hóa tình người” với bất cứ ai đang hiện hữu trên cõi đời này. Hiếu kính mẹ cha, phụng thờ tổ tiên ông bà, nối kết ân tình nghĩa cảm giữa người còn kẻ mất là truyền thống cao đẹp trong dòng chảy văn hóa tình người của dân tộc.
Một nét đẹp trong ngày Vu lan là chương trình bông hồng cài áo. Trong buổi lễ thiêng liêng ấy, ai còn cha mẹ sẽ sung sướng được cài lên ngực áo một đoá hoa hồng, ai mất mẹ lại buồn tủi cài lên ngực đoá hồng trắng buồn thương. Thế nhưng dù còn cha mẹ hay đã mất thì mỗi người con lúc này đang dâng lên một tình cảm biết ơn mẹ cha sâu lắng, và mỗi người tâm niệm sẽ sống hết lòng với bổn phận làm con hiếu của mình.
Chúng ta hiểu vì sao mà bổn phận làm con phải biết báo hiếu ? Bất cứ ai hiện hữu trên đời, trước hết phải được mẹ mang nặng đẻ đau : “Chín tháng cưu mang, nặng nhọc như đội núi; đêm đêm như bệnh nặng, ngày ngày tợ hoàng hôn; trong khi sinh nở, gan ruột dường như xé rách, đau đớn mê man, máu huyết dầm dề” (Kinh Báo Ân). Sanh con ra cha mẹ đã khổ nhọc, để nuôi con khôn lớn lại chịu khổ nhọc hơn, bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn, thậm chí vì con mà phải làm ác. Con là vàng ngọc, là giọt máu của cha mẹ chia hai, nên dẫu con thế nào cha mẹ vẫn thương con. Tình thương đó “có dừng lại chăng, chỉ hơi thở sau cùng”. (Kinh Báo Ân). Ơn sanh thành của cha mẹ thật bao la, cao như núi và rộng như biển, cha mẹ là đôi vầng nhật nguyệt sưởi ấm và sáng soi đời con: “Mẹ còn sống gọi là mặt trời giữa trưa chói sáng, mẹ khuất bóng rồi gọi là mặt trời đã lặn”(Kinh Tâm Địa Quán). Trong cuộc sống, không có hạnh phúc nào lớn hơn hạnh phúc còn cha mẹ, và không có bất hạnh nào lớn hơn bất hạnh của kẻ mồ côi. Hình ảnh người cha lao động cần mẫn sớm hôm, người mẹ dịu hiền chăm chút các con từng miếng ăn, giấc ngủ, đã từng và mãi mãi là những cung bậc êm đềm của bài hợp xướng gia đình. Căn bản đạo đức cũng bắt đầu từ sự giáo dục gia đình, vì cha mẹ là chuẩn mực của các con từ lúc còn thơ ấu. Mãi mãi về sau, dù ở lứa tuổi nào, chúng ta cũng thấy cha mẹ là chổ dựa tinh thần vững chắc. Có thể lúc ta thành công trong sự nghiệp hay hạnh phúc trong cuộc sống lứa đôi thì ta không cảm nhận rõ điều này, nhưng khi gặp cảnh ngộ không may, khi bị sống đời vùi dập tơi tả, khi hoàn toàn mất hết niềm tin đối với người chung quanh, ta mới chợt hiểu rằng, nơi một gốc trời xa yêu dấu, cha mẹ vẫn là chiếc nôi ấm cho mình ru giấc ngủ sâu, là vòng tay êm xóa tan hết nơi mình mọi buồn đau hận tủi. Ân sủng thiêng liêng ấy, tình cảm bao la bất tận ấy, ta có thể tìm được nơi đâu, ngoài cha mẹ của mình?
Nói về đạo hiếu, kinh điển Phật giáo đề cập đến rất nhiều, ngoài kinh Vu Lan Bồn ra, còn có một số kinh khác như kinh Nhẫn Nhục, Đại Tập, Tứ Thập Nhị Chương, A Hàm, Tăng Chi … lời lẽ rất thống thiết, sinh động, để lại dấu ấn tâm linh cho người đọc thực thi đạo sống làm người. Ngay trong bản kinh Tứ Thập Nhị Chương đã trình bày rõ quan điểm : “Phàm làm người phụng thờ qủy thần, không bằng phụng thờ cha mẹ, cha mẹ là vị thần tối thượng”. Còn kinh Đại Tập nói rằng: “Nếu ở đời không có Phật thì hãy theo phụng thờ cha mẹ cũng như phụng thờ Phật”. Phụng dưỡng cha mẹ là một sứ mệnh thiêng liêng, vượt lên trách nhiệm và bổn phận. Hiếu dưỡng cha mẹ bằng cách kính thuận năm điều: “Nuôi dưỡng cha mẹ; làm đủ bổn phận con cái đối với cha mẹ; giữ gìn gia đình và truyền thốn; bảo vệ tài sản thừa tự; làm tang lễ khi cha mẹ qua đời” (Kinh Giáo ThọThi La Ca Việt). Kính thờ cha mẹ, con cái phải làm tròn năm việc: “Phải lo sanh kế; dậy sớm lo cơm nước cho cha mẹ kịp thời; không nên làm cha mẹ thêm lo; phải nhớ ơn cha mẹ; khi cha mẹ có bệnh phải lo sợ chạy chữa kịp thời” (Kinh Lục Phương Lễ). Dù nổ lực để tận hiếu nhưng công ơn cha mẹ vô thượng thậm thâm thật khó đáp đền. Trong kinh Tăng Chi I, Đức Phật dạy “Có hai hạng người, này các Tỷ kheo, ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai? mẹ và cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, một bên vai cõng cha, làm vậy suốt 100 năm cho đến khi các người 100 tuổi. Nếu đấm bóp, tắm rửa, và dầu tại đấy họ có vãi đại tiểu tiện, như vậy cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha”. Những cách báo hiếu trên tuy xem ra cũng cao cả và không phải người con nào cũng hiểu và làm được trọn vẹn. Thế nhưng theo như những gì Đức Phật dạy thì sự báo ân như vậy vẫn chưa trả đủ công ơn cha mẹ. Công ơn cha mẹ to lớn như thế, bổn phận con cái phải làm thế nào mới tròn câu hiếu đạo?
      Hiếu đạo theo Phật giáo, nếu chỉ phụng dưỡng song thân đầy đủ vật chất cùng tất cả sự cung kính thì chưa đủ để báo ân cha mẹ. Người con hiếu, ngoài hiếu dưỡng thông thường phải hướng cha mẹ trở về an trú trong chánh pháp. Kinh Tăng Chi, Phật dạy : “Những ai đền ơn bằng cách nuôi dưỡng, cúng dường cha mẹ với các của cải, đồ ăn, tiền bạc thì không bao giờ đủ để trả ơn cha me. Này các Tỷ kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn, an trú vào thiện giới ; đối với cha mẹ san tham, khuyến khích, hướng dẫn an trú vào bố thí ; đối với cha mẹ theo ác tuệ, khuyến khích, hướng dẫn an trú vào trí tuệ. Như vậy là làm đủ và trả ơn đủ cho mẹ và cha, là chân thật báo ân”. Khuyến hóa cha mẹ trở về chánh pháp để tránh đọa lạc là cách báo hiếu trọn vẹn, bởi “Cúng dường cha mẹ không bằng khuyên cha mẹ làm việc lành, bỏ việc ác. Nếu không thể cải hóa cha mẹ phụng trì Tam bảo thời tuy có hiếu dưỡng cha mẹ cũng gọi là bất hiếu. Cha mẹ hung ngược, dâm dật, tà ngụy, trái đạo … người con phải hết sức ngăn cản mới gọi là hiếu” (Kinh Hiếu Tử). Khi cha mẹ qúa vãng, Phật dạy : “Mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy, ngay Tăng Tự Tứ, thiết lễ cúng dường mười phương chúng Tăng, nguyện cho cha mẹ hiện đời phước thọ tăng long, cha mẹ bảy đời thoát khổ ngạ qủy, được sanh vào trời người hưởng phước lạc vô cùng” (Kinh Vu Lan Bồn). Như vậy bổn phận con cái đối với cha mẹ thì ngoài việc dâng cúng những điều kiện về mặt vật chất là lẽ tất nhiên, thế nhưng sẽ có ý nghĩa hơn nếu như con cái biết hướng cha mẹ quy ngưỡng Tam Bảo, biết bố thí cúng dường, bỏ việc ác, làm các điều thiện. Mặt khác vì do công lao sanh thành và nuôi dưỡng của cha mẹ đối với con cái như trời như biển cho nên không thể lấy của cải vật chất bù đắp được. Vả lại, mọi của cải vật chất trên thế gian này đều tạm bợ, vô thường, biến hoại, không có giá trị trường cửu, do đó, nếu như khuyến khích cha mẹ có lòng tin, làm điều lành, sống theo chánh kiến, đó là hành động báo hiếu có ý nghĩa nhất. Bởi vì nếu ai thực hiện được như vậy thì cha mẹ của họ sẽ tăng phước, tăng thọ, an vui trong cuộc sống hiện tại mà đời sau cũng được thọ hưởng các quả báo tốt đẹp.
Hiếu dưỡng không chỉ báo đền ân đức cho cha mẹ mà chính người con cũng được tăng trưởng phước đức: “Cúng dường cha mẹ dù một chút ít cũng được phước đức vô lượng” (Kinh Tạp Bảo Tạng). Gia đình có con cháu hiếu thảo được Phật ca ngợi phước báu ngang hàng với Phạm thiên, xứng đáng được cúng dường. Kinh Tăng Chi, Phật dạy: “Những gia đình nào trong ấy các con cái kính lễ cha mẹ , những gia đình ấy được chấp nhận ngang hàng bằng với Phạm thiên, được chấp nhận là đáng được cúng dường”. Chính Sakkha (Đế Thích) nhờ hiếu thảo với cha mẹ mà được phước báo thiên chủ, làm vua cõi trời Tam Thập Tam Thiên. Điều này trong kinh Tương Ưng, đức Phật bảo Mahàli : “Này Mahàli, thuở xưa khi Thiên chủ Sakka còn là người, vị này chấp trì và thực hành bảy cấm giới túc : hiếu dưỡng với cha mẹ, kính trọng các bậc gia trưởng … Nhờ chấp trì bảy cấm giới túc này, Sakkha được địa vị Thiên chủ”. Kinh Hiền Ngu, Phật dạy: “Công đức hiếu thuận cha mẹ thù thắng khôn lường, nhờ công đức này trên làm Thiên đế, dưới làm Thánh vương cho đến thành Phật, được ba cõi tôn kính đều là do phước đức này vậy”.
       Nếu như con cái sống hiếu dưỡng với mẹ cha tạo phước đức vô lượng chừng nào thì bất hiếu là tội lớn nhất chừng đó. Chúng sanh phần nhiều vì nghiệp chướng che mờ tâm trí nên bất hiếu nhiều hơn hiếu thảo. Đức Phật xác định: “Điều ác nhất không gì hơn bất hiếu” (Kinh Nhẫn Nhục). Giết hại cha mẹ là tội nặng nhất, rơi vào địa ngục không thể cứu chữa. Đã có nhiều người con giàu sang phú qúy nhưng cha mẹ vẫn ở túp lều tranh, nhiều người cơm ăn áo mặc đầy tràn nhưng cha mẹ vẫn áo quần tả tơi, bươn chãi từng ngày để lo sinh kế, thậm chí đã có những người con có những hành động mất tính người như chửi mắng cha mẹ, đánh đập cha mẹ và nhan nhãn những bài báo đăng tin con cái giết cha mẹ … Thật đau lòng thay! Cha mẹ gian lao khổ cực làm lụng nuôi đàn con khôn lớn, thế nhưng đàn con không nuôi nổi cha mẹ, bạc đãi cha mẹ. Nhân nào quả đó, rồi đến lúc những đứa con bất hiếu này lại bị con cái của họ đối xử tệ bạc lại với họ. Khi đó dù họ có hối hận cũng đã muộn rồi, chỉ còn con đường vào địa ngục đang mở cửa đón chờ họ ở phía trước.
Nói đến gương hiếu hạnh thì trước hết chúng ta phải kể đến Đức Phật Thích Ca là bậc đã thể hiện trọn vẹn tinh thần hiếu đạo. Sau ngày thành đạo, tưởng niệm công ơn sanh thành như trời biển của thân mẫu, Ngài đã nhiều lần lên cung trời đao lợi thuyết pháp cho mẹ nghe. Hoàng hậu Ma Gia cùng với các vị thiên tử từ cung trời Dạ Ma xuống cung trời Đao Lợi để nghe đức Phật thuyết pháp và chứng đắc được sơ quả Tu Đà Hoàn. Đối với vua Tịnh Phạn, Ngài cũng thể hiện là một người con rất mực hiếu đạo khi còn ở hoàng cung. Và sau ngày thành đạo, Ngài đã nhiều lần trở về cố hương thăm thân phụ, đồng thời thuyết pháp khuyến khích vua cha phát tâm quy y Tam bảo. Nhờ sự giáo hóa của đức Phật, vua tịnh Phạn đã trở thành một người Phật tử thuần thành. Cảm động nhất là đêm cuối cùng trước khi đức vua băng hà, Ngài đã ở trong cung suốt đêm thuyết pháp cho thân phụ khiến vua cha chứng được quả A Na Hàm. Và chính đức Phật đã đích thân khiêng linh cửu vua đến nơi trà tỳ.
Trong lịch sử Việt Nam đã có ghi nhiều tấm gương tiêu biểu như vua Lý Nhân Tông (1072-1127) đã bãi dịp Trung nguyên yến ẩm chúc tụng của bách quan đối với mình để làm lễ Vu Lan Bồn cầu siêu cho mẹ đúng như ý nghĩa Phật giáo. Sử cũng chép về vua Tự Đức (1829-1882), rằng một hôm vua đi bắn chim ở vùng Thuận Trực, An Nong, gặp nước lũ, thuyền vua về chậm, thái hậu sai quân đem thuyền đi đón. Về đến Thương Bạc, vua vội vã về cung, chỉnh trang y phục, sang chầu mẫu hậu. Thái hậu giận, ngồi xây mặt vào vách, vua Tự Đức tự nằm xuống, gác cây roi mây trên lưng mình chịu tội. Thái hậu quay mặt ra lấy tay hất cây roi và quở trách nặng lời. Đêm đó, vâng lời mẹ, vua thức suốt đêm để phê tấu chuẩn. Từ đó về sau vua không còn bỏ bê việc triều chính nữa.
Khi đặt vấn đề chữ hiếu trong cuộc sống hiện đại, có nhiều người tròn mắt ngạc nhiên vì cho rằng liệu điều đó có còn chân thật không? Liệu có khó quá để theo đuổi một hình thức gia đình kiểu cổ xưa ấy không … Nhưng điều may mắn là đâu đó vẫn lấp lánh những tấm gương hiếu thảo nổi lên giữa cuộc sống hiện đại này. Anh Nguyễn Thanh, sau một thời gian dài đi du học, tìm được một việc làm ổn định trong một công ty đa quốc gia. Một người học trường Tây, làm việc cho Tây như thế nhưng ở Nguyễn Thanh, niềm yêu mẹ gần như trở thành một thứ “đạo” . Anh làm việc đến 21 giờ hằng đêm mới nghỉ, thế mà mỗi ngày đều dành thời gian chạy về đón mẹ đi làm về. Đều đặn như thế mấy năm. Và những khi biết sân khấu nào có vở kịch mới, rạp nào có phim hay, Thanh lại mua vé về cho mẹ đi xem. Có hôm vừa ăn cơm với bạn xong, nhưng mẹ gọi điện bảo về ăn cơm thì vội vã “vâng ạ, con đang đói đây, sẽ về ăn cơm với mẹ ngay”. Thanh tâm sự : “Sở dĩ mình có thói quen gần như thành lệ như thế là vì trong lòng lúc nào cũng muốn bù đắp chút gì cho mẹ, bởi mẹ đã chịu nhiều trống vắng khi công việc của ba mình là phải xa gia đình thường xuyên.
Một trường hợp điển hình nữa là trường hợp anh H. Long, tuổi đã 35, với cuộc sống gia đình vợ con bề bộn và công việc của một kỹ sư xây dựng, anh vốn không có nhiều thời gian chăm sóc cha. Mẹ đã mất từ lâu, anh dồn tình thương cho người cha già yếu bắng cách thu xếp qủy thời gian eo hẹp của mình để về bên cha. Người cha già lắm, đang phải ngồi xe lăn vì không thể đi lại được. Và bà con ở Gò Vấp vẫn quen thuộc với hình ảnh anh kỹ sư thường đẩy xe lăn cho cha đi dạo. Anh tâm sự: “Để cho cha được nhìn thấy cuộc sống, hít thở bầu không khí trong lành, thoát khỏi cảnh chật chội của gia đình và nhất là để cho cha khỏi buồn”. Quan niệm của anh về hiếu thảo là một suy nghĩ bình thường, với anh không phải là điều quá lớn lao. Hiếu thảo tức là biết chăm sóc cha mẹ, thương yêu cha mẹ như chính cha mẹ đã thương yêu mình và đừng làm cho cha mẹ buồn lòng.
Phong tục Việt Nam còn giữ lại nét đẹp truyền thống phương Đông, cha mẹ sống sum vầy cùng con cháu, có gia đình cả bốn đời cùng ở chung một nhà, gọi là tam tứ đại đồng đường. Các nước phương Tây lại khác, thường thích sống độc lập, con cái đến tuổi trưởng thành là ra ở riêng. Cha mẹ già được đưa vào nhà dưỡng lão, tuy vật chất đầy đủ nhưng tình cảm không được thắm thiết. Nhiều người già được bảo lãnh theo diện đoàn tụ, qua ở một thời gian đã thấy nhớ quê hương da diết, không hòa nhập với cuộc sống xứ người. Nhất là những gia đình đã thâm nhập trong cuộc sống hiện đại, mỗi người là một ốc đảo, sự liên hệ giữa các thành viên không được khắng khít, từ đấy mà tình cảm đối với người trưởng thượng cũng không còn được thiêng liêng, người già càng mang mặc cảm tủi buồn của một kẻ sống thừa ăn bám. Thật ra người già có rất ít nhu cầu vật chất, nhưng nhu cầu về tình cảm lại nhiều. Nếu không hiểu rõ điều này để khéo cư xử thì chúng ta có thể vô tình làm các người buồn giận, khiến tuổi xế chiều càng ảm đạm hơn.
Đối với người cư sĩ tại gia, nếu cha mẹ còn sinh tiền là một phước duyên rất lớn, vì cha mẹ là phước điền thế gian. Chúng ta cố gắng làm cho cha mẹ hài lòng, vui sống trong những ngày còn lại của cuộc đời về cả ba phương diện vật chất, tinh thần và tâm linh. Về vật chất, chúng ta chăm lo cho cha mẹ theo khả năng của mình, thuốc thang chu đáo khi các người đau yếu. Về tinh thần chúng ta khéo léo hòa hợp, dạy dỗ con cái biết kính trọng thương yêu ông bà. Bởi lẽ người già thường cảm thấy cô độc, hay tủi thân, đôi khi có những quan điểm bảo thủ hơi lạc hậu, chúng ta nên cảm thông trân trọng và thường xuyên quan tâm gần gủi. Về tâm linh, chúng ta hướng cha mẹ vào con đường hiền thiện, quy y Tam bảo, giữ gìn giới cấm. Nếu cha mẹ đã là Phật tử, chúng ta tạo điều kiện cho các người đi chùa nghe pháp, gần gũi các bậc tôn túc, sách tấn cha mẹ thực hành pháp tu đã chọn. Nếu cha mẹ chưa hiểu gì về đạo pháp, lại thường tạo ác nghiệp thì chúng ta hết sức kiên nhẫn, khéo léo khuyên giải cha mẹ trở về với chánh kiến. Bên cạnh đó bản thân con cái cũng phải làm nhiều phước thiện, nổ lực tu hành để hồi hướng công đức chuyển đổi tâm cha mẹ. Những lúc cha mẹ ốm đau, đức Phật dạy con cái nên thực hành trai giới, bố thí, phóng sinh và tụng kinh cầu an. Khi cha mẹ mất, đức Phật dạy con cái nếu muốn báo ơn cha mẹ thì thất thất trai tuần phải bố thí, phóng sinh, tụng kinh cầu nguyện cho vong linh cha mẹ được siêu thoát (Kinh Di Đà, Kinh Địa Tạng). Sau 49 ngày con cái vẫn tiếp tục báo hiếu cho cha mẹ. Mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy, với lễ vu Lan Bồn, con cái tùy điều kiện hoàn cảnh, bố thí, phóng sinh, cúng dường Tam bảo để hồi hướng công đức cho cha mẹ, cầu siêu cho cha mẹ tổ tiên nhiều đời.
Tóm lại, Vu Lan bồn là ngày lễ báo hiếu vô cùng cao đẹp của Phật giáo nói riêng và là ngày lễ hội báo hiếu nói chung của mọi người con hiếu trên thế gian này. Lễ Vu Lan mang một ý nghĩa thật thiêng liêng cao cả, giúp cho con cái nghĩ nhớ đến công ơn cha mẹ, khơi dậy trong lòng họ một tinh thần báo hiếu đáng quý, đáng trân trọng. Người con Phật nhận thức sâu sắc lời Phật, mùa Vu Lan về càng nỗ lực tinh tấn thực hành hạnh hiếu để báo đáp thâm ân của cha mẹ. Thờ kính cha mẹ đã trở thành một đạo lý sống của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là đạo lý sống của hàng Phật tử khi khẳng định đạo Phật là đạo hiếu.