Thứ Hai, 24 tháng 11, 2014

Lễ tạ ơn ông tơ hồng

Vì người ta cho việc vợ chồng là có ông Nguyệt Lão định trước, cho nên phải tạ ơn ông ấy, và cầu ông ấy phù hộ cho ăn ở được trăm năm với nhau.
Sau khi đón dâu về, gia đình chú rể bày hương án ra sân, dùng lễ xôi gà trầu rượu, chủ hôn vào lễ trước, rồi hai vợ chồng vào lễ sau, thường lệ có đọc văn tế. Văn tế Tơ hồng mỗi nơi viết một khác, không có khuôn phép bắt buộc, nhưng nội dung là ca tụng công đức ông Tơ bà Nguyệt xe môi duyên lành cho đôi trẻ và mong ông bà phù hộ cho cô dâu chủ rể ăn ở với nhau trọn tình trọn nghĩa đến đầu bạc răng long, sinh nhiều con đàn cháu đông.

Phong tục này chỉ có một số’ gia đình ở nước ta còn theo, phần nhiều đại chúng thì bỏ qua. về phần tinh thần đạo lý, lễ Tơ hồng biểu dương trong đạo vỢ chồng, là một nghi lễ có ý nghĩa cao quý.
Lời khấn :
"Hôm nay, ngày... tháng... năm...
Chủ hôn là... người thôn... xã... huyện... tỉnh...
Có con trai (trưởng, thứ) tên là... kết duyên cùng... con gái (trường, thứ) của ông bà... người xã... huyện... tỉnh...
Nay thủ tục hôn lễ đã thành, xin kính dăng lễ mọn gồm... gọi là theo phong tục lễ nghi thành hôn.
Trước án thờ tơ hồng Nguyệt lão thiên tiên
Trước linh toạ ngũ tự gia thần chủ tôn linh.
Trước liệt vị gia tiên chủ chăn linh.
... Khấn rằng : Tơ hồng Nguyệt lão thiên tiên
Rất công rất chính,
Chẳng vị chẳng thiên.
Gương Ngọc kính soi thông thế sự ;
Sợi xích thằng giao kết nhân duyên.
Trước theo nhạn cá thông môi, trạch phối hôn nhân tuy rằng phận đinh ;
Nay mừng uyên ương gặp lứa, tác thành gia thất, vốn tự tiên nhiên.
Ngửa trông linh đức;
Chứng giám vi kiêm
Hoà hiếu chung vui hai họ ỉ
Xướng tuỳ những ước bách niên
Nhờ ra con có của nên, điều lên chỉ từ nay hợp
cẩn.
Mong được duyên ưa phận đẹp, phúc chung tư đội đức Thiên tiên.
Cẩn cáo".
Sau lễ tế ông tơ bà Nguyệt, cô dâu chú rể vào phòng riêng, ông cụ cầm hương dẫn đoàn đón dâu của nhà trai trải chiếu cho cô dâu chú rể. Chiếu phải trải phang, kiêng trải lệch. Sau đó cụ rót hai chén rượu mòi cô dâu chú rể uống, rồi ý tứ lui ra ngoài khép cửạ buồng lại. Cô dâu chú rể sẽ ăn
cùng với nhau bữa cơm đầu tiên.
Tối hôm đó, khi nhập phòng, người chồng lấy cơi trầu tế Tơ hồng trao một miếng cho vợ, rót một chén rượu, mỗi người uống một nửa, gọi là lễ Hợp cẩn. Thời xưa, vợ lạy chồng hai lạy, chồng đáp lại bằng ba vái để tỏ lòng tương kính.
Nhiều gia đình phong kiến thời xưa, phỏng theo tục lệ Trung Quốc, đêm tán hổn cho lót giấy bản, gọi là giây thám trinh, để xem ngưòi con gái còn trinh tiết hay không. Nếu còn trinh thì sẽ có
mấy giọt máu trên giấy. Nếu không, trong lễ lại mặt, nhà gái sẽ nhận được một cái thủ lợn cắt lỗ tai, ngầm báo nhà trai sẽ trả lại cô dâu vĩ đã mất trinh.

Sự khác biệt lễ đưa dâu và lê rước dâu

Đưa dâu
Khi đưa dâu, nhà gái cũng kén một ông già cầm bó hương hoặc đỉnh trầm đi trước, rồi bà con họ hàng dẫn cô đâu đi sau, theo tục lệ thì bao giò cũng có mấy cô cậu ngang tuổi vói cô dâu chú rể đi phù dâu và phù rể.

Khi về đến nhà trai thì ở cửa ngoài đã có hai người cầm cơi trầu chực sẵn để đón mồi quan khách nhà gái. Bà mẹ chồng đón dâu tại cửa đưa vào nhà. Người nhà và các cô phù dâu đưa cô dâu vào buồng riêng nghỉ một lát, rồi người nhà lại đưa cô dâu chú rể vào lạy gia tiên, đưa đi lễ các nhà thò của đôi bên cha mẹ chồng, và làm lễ tế Tơ hồng. Xong đâu đấy thì cô dâu chú rể vào mừng tuổi ông bà cha mẹ chồng, chào mừng họ hàng, như đã làm ở bên nhà gái trước.
Đến đây là xong lễ nghi về đưa dâu. Có khi nhà trai mòi những người ở họ nhà gái ở lại ăn uống rồi mới ra về. Có khi nhà trai phải tiễn đưa họ nhà gái ra về đến tận nhà gái, những người này nói cho bố mẹ nhà gái biết việc đưa dâu đã chu đáo cả, rồi mới giải tốn.Khi nhà trai đưa họ hàng nhà gái về xong xuôi rồi, thì mở tiệc ăn mừng.


Các nghi lễ cần biết trong lễ rước dâu

Thời xưa tại miền quê, ở cùng làng xóm với nhau, người ta thường hay đi rước dâu vào ban đêm. Lúc đi phải chọn giờ tốt, nhất là được giờ hoàng đạo. Có nơi kiêng cữ cẩn thận, cho một người đàn ông dễ tính ra đón ngõ trướcđể "Ra ngõ gặp trai", cho mọi người và mọi việc được vui vẻ dễ dàng.
Trong đám rước, thường kén một cụ già hiền lành, vợ chồng song toàn, nhiều con cháu cầm một bó hương hay một đỉnh trầm đi trước, tục gọi là Tơ hồng. Kế đến là người dẫn lễ vật như mâm cau, bánh mứt, lợn, rượu v.v... Chú rể thì khăn áo chỉnh tể cùng với những người trong họ đi rước dâu. Tục lệ nhiều nơi mẹ và bố chồng không đi đón dâu. Có nơi chỉ có bố chồng đi đón.


Khi đoàn đón dâu đến ngõ nhà gái, đoàn sắp xếp, chỉnh đốn lại thú tự; đầu tiên là một cụ già cầm hương cùng với một người đội lễ - thường là một cái quả đựng trầu, cau và rượu vào trước. Mâm lễ ấy được đặt lên bàn thờ, cụ già thắp hương vái, nhà gái vái trả lễ rồi một vị đứng đầu họ nhà trai cùng ra đón đoàn xin dâu vào. Lễ này được tiến hành rất nhanh. Sau đó cô dâu cùng chú rể đến lạy trước bàn thò gia tiên, xin tổ tiên chấp nhận cho cô dâu chú rể đem hộp trầu đi mời khắp mọi người trong họ, ngưòi bể trên và cao tuổi mòi trưốc. Khi mòi, cô dâu phải chủ động mời trước đểchú rể biết cách xưng hô. TRƯỚC khi ra cửa về nhà chồng, cô gái đến lạy tạ ông bà, cha mẹ. Cha mẹ thường ngồi sẵn ở phía cửa chính, ông bà (nếu có) thì ngồi ở ghế cao hơn. Thông thường, lúc ấy cha mẹ cô gái cho cô dâu một vật gì đó làm kỷ niệm. Dâu và rể còn phải đem lễ đến nhà thờ tổ họ nội và bên họ ngoại của cô dâu để làm lễ.

Khi lễ gia tiên và lễ các nhà thờ xong, chủ hôn bên nhà trai lại nói với chủ hôn bên nhà gái để cho cô dâu chú rể mừng tuổi ông bà cha mẹ vợ. Khi làm lễ mừng, ngày xưa người ta trải chiếu để chú rể phải lễ bốn lễ ba vái, nhưng sau theo lễ của triều nhà Nguyễn, chỉ dùng "hành tam khấu lễ", nghĩa là ba vái mà thôi. Việc lễ sông ông bà cha mẹ sau này được tục lệ các nơi bãi bỏ.
Khi chàng rể chào mừng ông bà cha mẹ vợ, các vị này có vài lời dạy dỗ ban cho cả đôi vợ chồng, và ban cho chú rể một món tiền mừng, hay một đồ vật gì quý giá, trong khi ấy, các vị ổ trong họ hàng, cũng có mừng tiền cho cô dâu chú rể.
Khi tiệc xong, ông mối .và ông chủ hôn nhà trai đứng lên nói vâi chủ hôn nhà gái là đã đến giờ tốt, xin phép cho được rước dâu. Sau đó, đoàn đón dâu lên đưòng về nhà trai.
Đến ngõ nhà trai, pháo nổ giòn giã. Thường thường người ta chọn loại pháo tốt, hơ khô, buộc từng hai bánh pháo một với nhau để nổ cho giòn, tránh pháo tịt vì sợ gặp điều không may. Lúc này, mẹ chồng cầm bình vôi lánh mặt đi chỗ khác để cô dâu bước vào nhà. Có cụ già giải thích rằng, ngày xưa bình vôi là biểu hiện của tài sản. Các cụ nội trợ rất kiêng - không bao giò để bình vôi sứt miệng, thường quệt thêm vôi lên miệng bình vi tin rằng bình vôi càng dày, của cải trong nhà càng nhiều. Mẹ chồng cầm bình đi vì bà muôn nắm quyền hành trong nhà, không cho con dâu được quyền điều hành. Trước cửa nhà thường đặt một hoả lò than hồng, cô dâu phải bước qua để đốt những vía dữ gặp trên đường. Ở các địa phương, như Nghệ An, Hà Tĩnh, mẹ chồng có tục ra cất nón cho cô dâu. Cô dâu vào đến cổng, múc nước rửa mặt đựng trong một cái nồi đồng. Sau đó mẹ chồng dắt con dâu vào nhà, đặt quan tiền và cái quạt lên bàn thờ rồi lễ gia tiên: bôn lạy, ba vái.

Lễ xong, cô dâu cùng mẹ chồng bước vào buồng. Trong buồng có sẵn một đôi chiếu mối trải úp vào nhau. Người trải chiếu cho vợ chồng cô dâu phải là người ăn nên làm ra, con đàn cháu đống. Nếu mẹ chồng đủ điều kiện như trên thì mẹ chồng tự trải chiếu, dọn giường cho cồ dâu chú rể. Cô dâu nghỉ ngơi một lát, sau đó cầm hộp trầu đi mòi khắp trong họ.