Dâng hương tại gia
Từ xưa, người
Việt có tục dâng hương lễ bái tại gia các vị Gia thần và Gia tiên vào các dịp
tuần, tiết. Mỗi tuần, tiết dâng hương tại gia đều có những điểm khác nhau nhất
định, từ phẩm vật dâng cúng tới một sô' nghi thức và văn khấn, song vẫn có
nhũng nguyên tắc chung. Dâng hương cáo lễ Gia thần trưốc, Gia tiên sau.
Các phẩm vật
dâng hương cũng có thể là lễ chay hoặc lễ mặn (các gia đình thờ Phật thì chỉ
dâng lễ chay). Tuỳ hoàn cảnh từng gia đình mà có thể sắm lễ khác nhau, nhưng
thường có những đồ lễ dâng không thể thiếu: hương, đèn, chè, quả, rượu, nưốc
trong, trầu cau và tiền vàng. Riêng đèn (nến) thường là một cặp, được đặt cả
hai bên bàn thò, cao hơn các vật phẩm khác. Chúng tượng trưng cho hai vầng nhật-nguyệt
và được thắp sáng suốt buổi lễ. Lễ vật trên bàn thò có thể là chung nhưng nếu
có nhiều bát hương thì bát nào cũng phải thắp hương cả, và thắp theo số lẻ
(1,3,5.... nén) vì sô' lẻ thuộc âm. Khi cháy gần hết một tuần hương, gia chủ lại
thắp thêm một tuần nữa, rồi xin phép tổ tiên hoá vàng. Tiền vàng khi đã hoá
thành tro thì rót vào đó một chén rượu.
Mọi kỳ dâng
hương đều có vối và lễ. Vái thì các ngón tay đan vào nhau, còn lễ thì hai bàn
tay áp vào nhau và đều đặt ở vị trí ngang trước ngực. Nghi lễ này đòi hổi người
làm lễ Gà gia chủ) phải thành tâm, trầm tư mặc tưởng trưốc đấng tiên tổ, thần
minh. Vái lễ chỉ được thực thi sau khi các lễ vật đã được đặt lên bàn thò, đèn
đã được thắp sáng, hương đã được châm lửa. Người làm lễ sau khi đã châm lửa,
kính cẩn dùng hai tay dâng các nén hương ở vị trí ngang trán, vái ba vái rồi mới
cắm hương vào bát hương. Vái ba vái xong thì đọc văn khấn (mỗi dịp tuần tiết đều
có nội dung khác nhau). Khấn xong, lễ bôn lễ và thêm ba vái.