Sáng sớm, nhà
trai làm lễ cáo gia tiên. Sau đó đoàn dẫn lễ mang đồ lễ sang nhà gái. Đi đầu vẫn
là những người mang cau, trầu, bánh, hạt sen, trà ướp; tiếp theo là đồ mặn: nhà
nghèo thì xôi, gà; nhà giàu thì xôi, lợn quay. Xong việc dẫn lễ, cả nhà trai và
nhà gái đều bắt tay vào việc chuẩn bị cưới.
Dưới đây là cách
tính ngày hoàng đạo và hắc đạo của người xưa khi chọn ngày đưa dâu:
Tháng âm lịch
|
Ngày hoàng đạo (tốt)
|
Ngày hắc đạo (xấu)
|
Giêng, Bẩy Hai, Tám Ba, Chúi
Tư, Mười Năm, Một Sáu, Chạp
|
Tý, Sửu, Tỵ, Mùi Dần, Mão, Mùi,
Dậu Thân, Tỵ, Dậu, Hợi Ngọ, Mùi, Hợi, Sửu Thân, Dậu, Sửu, Mão Tuất, Hợi, Mão,
Tỵ.
|
Ngọ, Mão, Hợi, Dậu Thân, Tỵ, Hợi,
Sửu Tuất, Mùi, Mão, Sửu Tý, Dậu, Mão, Tỵ Dần, Hợi, Mùi, Tỵ Thìn, Sửu, Mùi, Dậu
|
Chọn ngày lành
tháng tốt để làm một việc đại sự cưới vợ cho con vì ngưòi xưa tin rằng "có
kiêng có lành". Chọn ngày giờ tốt không phải là một sự mê tín mà nhiều khi
là sự mong muốn cho con cái gặp điều tốt lành.
Trong "Việt
Nam phong tục Phan Kế Bính
khuyên ta không nên tin vào việc xem ngày kén giờ
nhưng không bài bác thẳng thừng mà coi
hướng dẫn
người đọc cách cưới xin; ông khuyên nhưng không ngăn, vì ông thể theo quan niệm
nhận thức của từng người. Bên cạnh đó, ông còn thấy đấy là sự mong muốn điều tốt
lành, tránh điều rủi to cho con cháu của các bậc cha mẹ.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét